____Du lịch BỤI____

RSS
Hiển thị các bài đăng có nhãn Du-lich-sinh-thai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Du-lich-sinh-thai. Hiển thị tất cả bài đăng

Yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái

Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch.
nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
 Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
          Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (eco-systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường).
          Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển hình.
          Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm:
          - Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch giỏi.
          - Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
          Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “ sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm.
          - Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
          - Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá-xã hội, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
          - Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giói hạn này thì năng lực quản lý ( lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý...) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội.
          Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
          Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan niệm” về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau (ví dụ giữa các nước Châu Á và châu Âu, giữa các nước phát triển và đang phát triển ...). Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
          - Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
          Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch .
Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
          Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên.
          Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
          Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này .
          Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
          Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay khoa học).
          Phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
          Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia .
          Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).
          Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
          Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành.

  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

Hỗ trợ bảo tồn hiệu quả bằng du lịch sinh thái

Du lịch sinh thái đang dần được quan tâm phát triển trong các khu bảo tồn nhằm mang lại lợi ích đáng kể cho cộng đồng địa phương cũng như đóng góp tích cực cho công tác bảo tồn. Tuy nhiên, nguy cơ tác động tiêu cực đến môi trường, cảnh quan và đa dạng sinh học trong các khu bảo tồn là điều khó tránh khỏi nếu không được quản lý hiệu quả. Trước những cơ hội và thách thức này, dự án Phát triển Du lịch sinh thái trong và xung quanh các khu bảo tồn ở Việt Nam do Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch hỗ trợ thông qua WWF-Đan Mạch phối hợp với WWF-Việt Nam đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Việt Nam phê duyệt cho giai đoạn 2009-2014.
Hỗ trợ bảo tồn hiệu quả bằng du lịch sinh thái
Hỗ trợ bảo tồn hiệu quả bằng du lịch sinh thái
Các đối tác chính của dự án gồm có Vụ bảo tồn thiên nhiên và các VQG Cát Tiên, Bidoup-Núi Bà. Một trong những mục tiêu chính của dự án là thí điểm xây dựng mô hình du lịch cộng đồng ở VQG Cát Tiên (một trong những khu Dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận và cũng được ghi danh trong danh sách RAMSAR của thế giới nhưng đang phải gánh chịu nhiều áp lực từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không bền vững). Ngoài ra, dự án cũng tập trung xây dựng năng lực cho cán bộ cũng như hỗ trợ xây dựng sản phẩm và quảng bá du lịch sinh thái cho Vườn. Một mục tiêu vô cùng quan trọng khác là xây dựng các văn bản hướng dẫn và chính sách giúp góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc phát triển du lịch sinh thái trong các khu rừng đặc dụng nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với cảnh quan và đa dạng sinh học.
Với sự ủng hộ mạnh mẽ và tích cực của Chính phủ và các bên liên quan, dự án đã đạt được một số kết quả đáng kể ban đầu:
Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng ở VQG Cát Tiên với tâm điểm là Nhà Dài truyền thống của cộng đồng thiểu số Châu Mạ, S'tiêng.
Lồng ghép Du lịch sinh thái vào quá trình lập kế hoạch phát tiển cấp xã, huyện và tỉnh với sự tham gia tích cực của các bên liên quan ở VQG Cát Tiên.
Xây dựng năng lực cho cán bộ Vườn Quốc gia và người dân địa phương tham gia các hoạt động du lịch ở VQG Cát Tiên và Bidoup-Núi Bà.
Phối hợp với Chương trình xây dựng năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội do Liên minh Châu Âu tài trợ, xây dựng sổ tay hướng dẫn Du lịch cộng đồng
Phối hợp với Tổng cục Du lịch xây dựng Bộ tiêu chí và quy trình chứng nhận du lịch trách nhiệm đối với các doanh nghiệp lữ hành và đã được phê duyệt.
Phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp xây dựng dự thảo Thông tư quy định phát triển du lịch sinh thái trong các khu rừng đặc dụng.

Trong đó, việc xây dựng quan hệ đối tác doanh nghiệp-cộng đồng-vườn quốc gia được đánh giá là một kết quả hết sức quan trọng góp phần đảm bảo tính bền vững cho dự án. Cụ thể ở VQG Cát Tiên hiện nay có doanh nghiệp Caphex phối hợp với cộng đồng địa phương phát triển các hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng rất hiệu quả đã mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho cộng đồng và Vườn Quốc gia. Ở VQGBidoup-Núi Bà cũng có công ty lữ hành Wildtour phối hợp xây dựng và quảng bá các sản phẩm du lịch nhằm tạo việc làm ổn định cho cộng đồng địa phương đồng thời giảm phụ thuộc vào tài nguyên rừng

  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

Phát triển kinh tế với du lịch sinh thái và bảo tồn

Vài năm trở lại đây, lĩnh vực du lịch, nhất là du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới đã có rất nhiều bước phát triển. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái không chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một vài nơi, nó xuất hiện không thường xuyên và khá yếu ớt, ít được báo chí chú ý tới. Song ở nhiều nơi khác thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng cáo thương mại công cộng.
Phát triển kinh tế với du lịch sinh thái và bảo tồn
Phát triển kinh tế với du lịch sinh thái và bảo tồn

Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế và giao l­­ưu quốc tế cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực.
Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong t­ương lai gần hoạt động du lịch đ­­ược coi như­­ là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất n­ước.
      Việt Nam là đất nước có nhiều tiềm năng về nguồn lực du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Khách nước ngoài đến Việt Nam đều đánh giá cao vẻ đẹp đất n­­ước ta. Hàng loạt các địa danh có thể sử dụng phục vụ khách du lịch, bên cạnh đó nhiều điểm vẫn còn ch­ưa được khai thác. Thật khó mà liệt kê hết tất cả những điểm có sức thu hút khách.
      Cùng với sự phát triển của du lịch nói chung, trong những năm gần đây du lịch sinh thái Việt Nam cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh những tiềm năng và triển vọng, sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn.
1. Khái quát du lịch sinh thái.
Vấn đề vẫn còn tồn tại mỗi khi thảo luận về du lịch sinh thái là việc khái niệm về du lịch sinh thái vẫn chưa được tìm hiểu kỹ, do đó thường bị nhầm lẫn với các loại hình phát triển du lịch khác. Tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra. Ðịnh nghĩa này cho rằng "du lịch sinh thái là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hoá đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra, và tạo ra ích lợi cho những người dân địa phương tham gia tích cực" (Ceballos-Lascuráin, 1996).
Không nên coi du lịch sinh thái là ngành du lịch "dựa vào thiên nhiên" vì cái mác này có thể sử dụng trong tất cả các hoạt động du lịch được thực hiện ngoài thiên nhiên (ví dụ đi xe đạp leo núi, leo núi , và bám vách đá leo núi). Những hoạt động du lịch này có thể có mà cũng có thể không thuộc loại hoạt động thân thiện với môi trường. Một cách gọi khác thường bị nhầm với du lịch sinh thái là du lịch thám hiểm. Loại hình này thường là các hoạt động thể thao cơ bắp (thường bao gồm sự mạo hiểm cá nhân ở một mức độ nào đó) cũng diễn ra ngoài thiên nhiên. Những hoạt động này có thể có hoặc có thể không thuộc loại có trách nhiệm đối với môi trường hay làm lợi cho dân địa phương. Do đó, du lịch sinh thái chỉ nên được sử dụng để mô tả những hoạt động du lịch trong môi trường thiên nhiên với một đặc điểm đi kèm: là loại hình du lịch thực sự khuyến khích bảo vệ và giúp xã hội phát triển bền vững.
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ:
- Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên.
- Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng.
- Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v...
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài lòng đối với  du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch.
Loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển hình, có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm:
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất  quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch giỏi.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
- Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiệm đạo đức đối với môi trường tự nhiên.
- Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
- Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu, do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
- Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay khoa học).
- Phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia .
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng xử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
- Đây là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành du lịch không khói này.

  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS